ForeverMissed
Large image
His Life

TIEU-SU

February 25, 2016

Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 6 năm 1929 tại Bến Tre, miền tây Nam phần trong một gia đình điền chủ. Ông đã tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 49/118.249. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (sau cải danh thành trường Võ bị Quốc gia. Khai giảng ngày 1/7/1951, mãn khóa ngày 24/4/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn phục vụ trong Tiểu đoàn 3 Nhảy dù của Quân đội Quốc gia Việt Nam, đồn trú tại Hà Nội.

Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genėve, ông được thăng cấp Trung úy cùng đơn vị di chuyển vào Nam đồn trú tại Nha Trang.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Năm 1955, sau khi chuyển sang phục vụ cơ cấu mới của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy dù thay thế Đại úy Nguyễn Văn Viên. Tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm.

Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông chuyển sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Ngô Xuân Soạn (bị sát hại vào nửa đêm ngày 11/11/1960 tại hậu cứ Tiểu đoàn 3 Dù vì không chịu tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu).

Tháng giêng năm 1962, ông được cử làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 Nhảy dù vừa được thành lập. Đến đầu năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và bàn giao Chiến đoàn 2 Dù lại cho Thiếu tá Ngô Xuân Nghị (sinh 1932 tại Khánh Hòa, tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt). Sau đó, ông được chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 25 bộ binh do Đại tá Nguyễn Thanh Sằng làm Tư lệnh.

Tháng 9 năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 10 bộ binh thay thế Thiếu tướng Lữ Lan đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự tại Đà Lạt.

(Đầu năm 1967, ông sáng kiến đề nghị cải danh Sư đoàn Bộ binh 10 thành Sư đoàn 18 Bộ binh và được Bộ Tổng tham mưu chấp thuận)

Đầu tháng 11 năm 1967, ông được vinh thăng hàm Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ (nguyên Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức). Sau đó, ông được điều động về phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu. Tháng 8 năm 1972, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân (Bộ chỉ huy Biệt động quân Trung ương). Tháng 4 năm 1974, ông được vinh thăng hàm Thiếu tướng tại nhiệm.

1975

Sau ngày 30 tháng 4, ông bị chính quyền mới bắt đi cải tạo và bị lưu đày suốt 17 năm, mãi cho đến ngày 5 tháng 5 năm 1992 ông mới được trả tự do.

Hạ tuần tháng 10 năm 1993, ông được phép xuất cảnh theo diện H.O do Chính phủ Hoa Kỳ bảo lãnh. Sau đó, ông được định cư tại Garland, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.

Ngày 21 tháng 2 năm 2016, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.